Xây dựng và kiểm tra VBQPPL
Hải Dương: Tích cực ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm trong ban hành văn bản QPPL
19/11/2019 03:09:42

Để phòng ngừa, hạn chế nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm trong ban hành văn bản QPPL, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Hải Dương đã chỉ đạo các sở, ngành và UBND các huyện, thành phố thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của pháp luật về xây dựng, ban hành văn bản QPPL

1. Kết quả đạt được

Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện: Xác định việc ban hành hệ thống văn bản QPPL đảm bảo tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp, qua đó góp phần phòng ngừa, hạn chế nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm, thời gian qua UBND tỉnh Hải Dương đã ban hành nhiều văn bản để triển khai thi hành Luật ban hành văn bản QPPL và cụ thể hóa những quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương (Quyết định số 12/2017/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 Ban hành Quy chế phối hợp rà soát, hệ thống hóa, cập nhật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật văn bản của HĐND, UBND tỉnh; Quyết định số 26/2017/QĐ-UBND ngày 20/9/2017 Ban hành Quy định về xây dựng, ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND tỉnh Hải Dương…). Đồng thời, chỉ đạo Sở Tư pháp hàng năm tham mưu giúp UBND tỉnh ban hành danh mục văn bản QPPL do HĐND, UBND tỉnh ban hành quy định chi tiết, biện pháp thi hành những nội dung được luật giao… (Quyết định số 255/QĐ- UBND ngày 17 tháng 01 năm 2019 của UBND tỉnh ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Hải Dương năm 2019).

Công tác lập đề nghị xây dựng Nghị quyết: Với mục tiêu nâng cao chất lượng văn bản QPPL của địa phương, các chính sách được ban hành trong các Nghị quyết đảm bảo tính hợp Hiến, tính hợp pháp, phù hợp với thực tiễn, góp phần ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm thông qua hoạt động ban hành văn bản QPPL, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thực hiện nghiêm túc quy trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL như: xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật… đối với các dự thảo Nghị quyết ban hành theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 27 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015. Đồng thời, chỉ đạo Sở Tư pháp - cơ quan có trách nhiệm thẩm định dự thảo đề nghị xây dựng Nghị quyết tập trung phân tích, phản biện và nêu rõ chính kiến của mình trong các báo cáo thẩm định, làm cơ sở tin cậy để các đại biểu HĐND thảo luận và quyết định.

Công tác soạn thảo văn bản: Nhằm nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL, cùng với việc quán triệt, triển khai có hiệu quả các văn bản QPPL của Trung ương và của tỉnh về việc ban hành văn bản QPPL, UBND tỉnh Hải Dương đã ban hành Quyết định số 4378/QĐ-UBND ngày 28/11/2018 về việc ban hành Đề án “nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2019 - 2021”. Theo đó, việc tham mưu, soạn thảo văn bản QPPL đã được các sở, ban, ngành tỉnh Hải Dương quan tâm và thực hiện tương đối nghiêm túc.

Đặc biệt, việc lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản thời gian qua đã được các cơ quan, đơn vị quan tâm thực hiện. Sau khi văn bản dự thảo được hoàn chỉnh, các đơn vị tham mưu đều thực hiện nghiêm việc tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, đơn vị có liên quan tùy theo nội dung văn bản. Một số dự thảo quan trọng còn được đưa ra lấy ý kiến tại cuộc họp của UBND tỉnh, sau đó ban cán sự Đảng UBND tỉnh báo cáo Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến chỉ đạo trước khi gửi Sở Tư pháp thẩm định theo quy định.

Công tác thẩm định: UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp chặt chẽ với các Sở, ngành, địa phương, và cán bộ công chức có liên quan làm tốt các khâu trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL, đặc biệt là khâu thẩm định văn bản.

Nhằm nâng cao chất lượng thẩm định văn bản QPPL, đặc biệt là đối với các dự thảo văn bản tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm (Hỗ trợ, bồi thường, luân chuyển cán bộ công chức, phí, lệ phí...), Sở Tư pháp- cơ quan thẩm định dự thảo văn bản QPPL đã ban hành Quy chế thành lập, tổ chức, hoạt động của Hội đồng tư vấn thẩm định dự thảo văn bản QPPL; xây dựng mẫu Báo cáo thẩm định dựa trên cơ sở bám sát các quy định của Luật ban hành văn bản QPPL 2015; Quán triệt đến các sở, ngành và UBND cấp huyện tuân thủ chặt chẽ trình tự thủ tục, hồ sơ, thời hạn thẩm định.

Nhìn chung, các ý kiến tham gia thẩm định của Sở Tư pháp hầu hết đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu, chỉnh sửa cũng như có ý kiến giải trình rõ ràng đối với những nội dung không tiếp thu, chỉnh sửa. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch, công khai của dự thảo văn bản.

Việc xem xét thông qua VBQPPL:Nhìn chung, việc xem xét thông qua dự thảo văn bản QPPL của HĐND, UBND được thực hiện theo quy định pháp luật, đảm bảo đầy đủ hồ sơ, thủ tục có liên quan, thông qua việc cho ý kiến bằng văn bản hoặc tại các cuộc họp thành viên UBND tỉnh đối với các dự thảo mang tính phức tạp. Đối với các dự thảo Nghị quyết của HĐND tỉnh được bàn bạc, thảo luận, tổng hợp ý kiến và được đại biểu HĐND tỉnh biểu quyết thông qua trong các kỳ họp. Bên cạnh đó, việc đăng công báo, niêm yết, đưa tin và lưu trữ về nội dung văn bản đều đảm bảo thực hiện theo đúng quy định pháp luật, các VBQPPL sau khi ký ban hành được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử tỉnh và cấp huyện.

2. Tồn tại, hạn chế - Nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ban hành văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Hải Dương thời gian qua vẫn còn một số hạn chế nhất định, tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm thông qua hoạt động này. Cụ thể như sau:

- Việc tham mưu xây dựng văn bản QPPL do các cơ quan chủ trì thường chậm, không đảm bảo thời hạn (nhất là những văn bản QPPL nhằm quy định chi tiết những vấn đề được luật giao).

- Một số cơ quan soạn thảo chưa tuân thủ nghiêm quy định pháp luật về quy trình xây dựng văn bản, vẫn còn trường hợp chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục theo quy định như khâu phối hợp lấy ý kiến các cấp, các ngành liên quan nhất là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản đóng góp vào văn bản dự thảo; đồng thời, các cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến đóng góp đôi khi chỉ góp ý mang tính hình thức hoặc không góp ý, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ xây dựng VBQPPL.

- Một số Báo cáo thẩm định mới chỉ dừng lại ở các khía cạnh pháp lý, chưa mang tính tư vấn sâu về nội dung, chưa tạo cơ sở để tham mưu giúp HĐND, UBND tỉnh quyết định những vấn đề quan trọng và còn có ý kiến khác nhau của dự thảo văn bản QPPL. Nhiều báo cáo thẩm định còn nặng về hình thức, chưa đi sâu vào những vấn đề cơ bản của dự thảo. Một số trường hợp thẩm định chưa đảm bảo thời hạn quy định, ảnh hưởng đến tiến độ chỉnh lý, hoàn thiện và trình văn bản cũng như thời gian dự kiến ban hành văn bản.

- Một số văn bản sau kiểm tra phát hiện có dấu hiệu không phù hợp với pháp luật, tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm chậm được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành mới

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu:

- Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành thiếu những quy định cụ thể, nhiều nội dung còn chồng chéo, bất hợp lý - nhất là các quy định liên quan trực tiếp đến công tác phòng ngừa nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm (quy định về thủ tục hành chính, công tác thẩm định, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác xây dựng văn bản QPPL….) trong khi tính chất của hiện tượng tham nhũng và lợi ích nhóm khó phát hiện ngay từ đầu và khó xác định được thời điểm sẽ xẩy ra hậu quả.

- Người làm công tác soạn thảo văn bản QPPL còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. ( Đối với tỉnh Hải Dương, hầu hết cán bộ, công chức làm công tác soạn thảo văn bản QPPL của các sở, ban, ngành tỉnh còn thiếu và chưa đảm bảo về trình độ năng lực, một số trường hợp còn nhận thức máy móc về công tác soạn thảo và ban hành văn bản QPPL. Khi xây dựng dự thảo văn bản QPPL còn thiếu rà soát, đối chiếu với quy định của cấp trên; thiếu khâu điều tra, khảo sát, phân tích đánh giá tình hình thực tế, thường sao chép lại các quy định của trung ương… dẫn đến chất lượng dự thảo văn bản kém).

- Việc gửi dự thảo văn bản của nhiều cơ quan chủ trì soạn thảo gửi Sở Tư pháp thẩm định thường muộn hơn so với quy định (có trường hợp yêu cầu thẩm định trong một buổi), khiến cơ quan thẩm định rơi vào tình thế bị động, thiếu thời gian để tổ chức công tác thẩm định, đọc và nghiên cứu kỹ lưỡng văn bản. Mặt khác, số lượng các văn bản gửi thẩm định thường tập trung vào một thời điểm trước các kỳ họp của HĐND, kỳ họp thường kỳ của UBND tỉnh nên dẫn đến quá tải cho bộ phận chuyên môn làm công tác thẩm định.

- Về kinh phí: hàng năm tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp xây dựng Kế hoạch và lập dự toán kinh phí phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, tuy nhiên còn ở mức rất hạn chế. Kinh phí hỗ trợ cho công tác văn bản cấp huyện nhìn chung đã được HĐND và UBND cấp huyện quan tâm. Tuy nhiên, kinh phí ở mỗi địa bàn là khác nhau, một số đơn vị cấp kinh phí cho công tác văn bản được phân bổ trong khoán chi của các đơn vị, chưa có kinh phí hỗ trợ riêng.

3. Ðề xuất hoàn thiện pháp luật về xử lý ðối với hành vi nhũng nhiễu.

         Để phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL thì việc hoàn thiện các văn bản QPPL có nguy cơ bị lợi dụng để thực hiện hành vi nhũng nhiễu là rất quan trọng - đặc biệt là các quy định điều chỉnh trực tiếp hoạt động ban hành văn bản QPPL. Theo đó, tỉnh Hải Dương đề xuất một số nội dung sau:

         Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số các quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể:

         - Đối với việc quy định thủ tục hành chính trong văn bản QPPL: Theo quy định của Điều 27 và 28 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015, thì HĐND cấp tỉnh được ban hành chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên, nhằm phát triển kinh tế- xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh và biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương; UBND cấp tỉnh ban hành biện pháp để thi hành Hiến pháp… Khi ban hành văn bản QPPL về các vấn đề nêu trên sẽ có phát sinh thủ tục hành chính (toàn bộ thủ tục hoặc một bộ phận cấu thành thủ tục hành chính). Tuy nhiên, Luật năm 2015 không cho HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành thủ tục hành chính “trừ trường hợp được giao trong luật” sẽ dẫn đến sau khi ban hành văn bản QPPL quy định chính sách, biện pháp sẽ giao cơ quan chuyên môn ban hành văn bản hướng dẫn trong đó có quy định thủ tục hành chính, khi đó, những quy định thủ tục hành chính này không được ban hành theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL, không thực hiện đánh giá tác động, không được Sở Tư pháp thẩm định, mang ý chí chủ quan của cơ quan ban hành, quy định thủ tục có thể mang tính lợi ích nhóm, trình tự rườm rà, có nguy cơ phát sinh hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn cho đối tượng thực hiện thủ tục hành chính. Theo đó, đề nghị bổ sung các trường hợp được quy định thủ tục hành chính trong văn bản QPPL của UBND, HĐND cấp tỉnh.

         - Đối với việc thẩm định dự thảo văn bản QPPL: Để nâng cao chất lượng thẩm định đối với dự thảo văn bản QPPL- một hoạt động rất quan trọng, góp phần phát hiện, ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, lợi ích nhóm trong công tác này, cần:

         + Sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung thẩm định văn bản QPPL. Theo đó, bổ sung việc thẩm định sự cần thiết ban hành văn bản; tính khả thi của dự thảo; sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản (nếu có) là khâu bắt buộc trong cơ chế thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh. Đồng thời, để Sở Tư pháp thẩm định được tính khả thi thì cần quy định các điều kiện đảm bảo thực hiện như quy định cơ quan soạn thảo phải đánh giá thực tế, đánh giá trình độ phát triển của xã hội trên địa bàn; nhân lực thực hiện, kinh phí, cơ sở vật chất…

+ Quy định rõ giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định. Báo cáo thẩm định là kết quả của quá trình nghiên cứu, xem xét, đánh giá dựa trên các quy định pháp luật, thể hiện qua ý kiến của Sở Tư pháp, có thể là đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh sửa, có thể là đưa ra kiến nghị để UBND cấp tỉnh xem xét hoặc có thể là kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ, đình chỉ việc thi hành một văn bản khác... Điều đó cho thấy báo cáo thẩm định có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện. Vì vậy, cần thiết phải được xác định và quy định chính thức để tăng trách nhiệm của cơ quan soạn thảo cũng như của Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan.

+ Quy định rõ tiêu chuẩn của cán bộ, công chức làm công tác thẩm định văn bản QPPL đảm bảo đạt hai điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần là trình độ pháp luật và điều kiện đủ là kinh nghiệm, trình độ chuyên ngành khác để nâng cao chất lượng thẩm định văn bản.

+ Sửa đổi, bổ sung các nội dung chi cho công tác thẩm định văn bản QPPL trong Thông tư số 338/2017/TT- BTC ngày 28/12/2016.

         - Đối với việc xử lý các văn bản QPPL có dấu hiệu trái luật: Cần nghiên cứu quy định cụ thế về trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc tham mưu ban hành văn bản QPPL trái pháp luật để tạo tính khả thi và răn đe. Việc quy định như Nghị định số 34/2016/NĐ-CP vẫn dừng lại ở mức chung chung, chưa cụ thể.

Thứ hai, sửa đổi, bãi bỏ những bất cập trong các quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, Thông tư số 01/2015/TT-BTP ngày 15/01/2015 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về nghiệp vụ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế, cụ thể:

- Theo quy định tại Điều 9, 10 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP thì việc thành lập tổ chức pháp chế thuộc các cơ quan chuyên môn, DNNN trên địa bàn tỉnh là bắt buộc; Khoản 2 Điều 12 của Nghị định quy đinh công chức, cán bộ và viên chức pháp chế được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề…; Khoản 2 Điều 10 của Nghị định quy đinh Tổ chức pháp chế các doanh nghiệp nhà nước ở địa phương chịu sự quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác pháp chế của Sở Tư pháp…Tuy nhiên, các quy định trên rất khó thực hiện, bởi vì khi thực hiện phải bảo đảm đúng yêu cầu về cải cách hành chính (khi thành lập mới không làm tăng bộ máy, tăng biên chế, tăng kinh phí…).

- Ban hành văn bản quy định cụ thể chế độ, chính sách của người làm công tác pháp chế theo khoản 2 Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Thực tế, đội ngũ cán bộ pháp chế các Sở đa số được điều chuyển từ bộ phận Thanh tra của cơ quan, vốn đã có chế độ phụ cấp nghề nên phần nào chưa khích lệ tinh thần của cán bộ chuyển sang làm công tác pháp chế.

- Sớm khắc phục những mẫu thuẫn, bất cập giữa Nghị định và Thông tư. Cụ thể:

+ Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ chức Phòng Pháp chế (cụ thể là được thành lập ở 14 cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh) tuy nhiên, theo Thông tư hướng dẫn lại không có quy định về Phòng Pháp chế;

+ Điểm a và điểm b khoản 1 Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định: người làm công tác pháp chế phải có trình độ cử nhân luật trở lên; người đứng đầu tổ chức pháp chế phải có trình độ cử nhân luật trở lên và có ít nhất 05 năm trực tiếp làm công tác pháp luật. Thực tế cho thấy, tiêu chuẩn nêu trên là khó thực hiện và không phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Đặc biệt là những cơ quan có tính chất chuyên ngành như y tế, tài chính, công thương, giao thông vận tải…, thì việc sử dụng người làm công tác pháp chế có trình độ cử nhân luật thuần túy có nhiều bất cập và không hoàn toàn phù hợp với yêu cầu công việc.

            Ngoài các quy định liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác ban hành văn bản QPPL và cán bộ, công chức trực tiếp tham gia soạn thảo, ban hành văn bản QPPL, đnghị Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành liên quan sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Luật cán bộ công chức, viên chức và các quy định về cải cách thủ tục hành chính nhằm quy định chặt chẽ, rõ ràng đảm bảo các hành vi nhũng nhiễu được loại trừ, cán bộ công chức công tâm, khách quan, tận tâm tận lực phục vụ nhân dân.

 
Các tin mới hơn
Một số chính sách nổi bật có hiệu lực trong tháng 04 năm 2024(29/03/2024)
Hải Dương công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương kỳ 2019 – 2023(11/03/2024)
HĐND tỉnh thông qua các nghị quyết quan trọng tại Kỳ họp thứ 20 khóa XVII(05/03/2024)
Công bố danh mục VBQPPL hết hiệu lực, ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của tỉnh Hải Dương năm 2023(19/02/2024)
Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương ban hành Kế hoạch công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện Đề án nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật tỉnh Hải Dương giai đoạn 2021-2025 năm 2024 (19/02/2024)
Các tin cũ hơn
Danh mục Quyết định của UBND tỉnh quy định chi tiết các nội dung được giao trong các Luật được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 7(19/11/2019)
Sửa Luật Ban hành văn bản QPPL: Kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội(19/11/2019)
Tập huấn chuyên sâu về công tác xây dựng, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật(08/10/2019)
Kế hoạch tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ xây dựng, kiểm tra văn bản QPPL(26/08/2019)
Tọa đàm tăng cường năng lực cho các cơ quan, tổ chức, người thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng Bộ pháp điển(23/08/2019)
Video
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website
THƯ VIỆN ẢNH