Tài liệu tuyên truyền PL
Tài liệu tập huấn hòa giải ở cơ sở (Một số quy định về phòng chống bạo lực gia đình)
04/06/2019 09:40:16

Gia đình là tế bào của xã hội. Trong xã hội, mỗi gia đình trong đó các thành viên sống bình đẳng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và không có bạo hành là nền tảng tiến tới một xã hội phát triển bền vững.

1. Thực trạng về Bạo lực gia đình – Nguyên nhân.

Gia đình là tế bào của xã hội. Trong xã hội, mỗi gia đình trong đó các thành viên sống bình đẳng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và không có bạo hành là nền tảng tiến tới một xã hội phát triển bền vững.

Xuất phát từ ý nghĩa gia đình là tổ ấm và thực tiễn đã cho thấy, những thành quả phát triển đất nước có được phần lớn từ sự đóng góp của mỗi gia đình. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta  luôn quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng và bảo vệ gia đình. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đề ra mục tiêu “mỗi gia đình Việt nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình trong đó có vấn đề bạo lực gia đình như Hiến pháp năm 1992, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi... Tuy nhiên, các quy định pháp luật kể trên mặc dù đã đề cập đến các biện pháp bảo vệ gia đình và phòng ngừa bạo lực gia đình, song xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật, thiếu tính cụ thể và chưa có những quy định pháp lý đặc thù.

Trong khi đó, tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra ngày càng phổ biến ở nhiều nơi, số vụ bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng tăng cao, tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm và tính mạng của con người vẫn xảy ra hàng ngày. Kết quả khảo sát cho thấy: Cứ khoảng 2 đến 3 ngày có 01 người bị giết có liên quan đến bạo lực gia đình, một tỷ lệ khá lớn bệnh nhân là nạn nhân của bạo lực gia đình, trong số 10.608 vụ án xét xử về hôn nhân và gia đình từ năm 2000 đến năm 2005 thì có tới 42% số vụ án ly hôn có nguyên nhân từ bạo lực gia đình...  Điều đó không những trái với truyền thống văn hoá tốt đẹp có từ ngàn xưa của dân tộc ta mà quan trọng hơn cả đã xâm phạm đến quyền con người. Chỉ thị số 49 chỉ rõ “tình hình bạo lực gia đình gia tăng làm ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta” và vì vậy, đấu tranh và tăng cường phòng, chống bạo lực trong gia đình, thực hiện chỉ tiêu giảm tỷ lệ bạo lực gia đình bình quân hàng năm từ 10-15%  là nhiệm vụ, mục tiêu đã được xác định rõ trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2006-2010) và Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo lực gia đình và được chia thành 2 nhóm nguyên nhân cơ bản sau: 

* Nhóm nguyên nhân từ phía cá nhân:

- Bạo lực thường diễn ra trong những gia đình có chồng hoặc vợ mắc vào các tệ nạn xã hội (chủ yếu chồng) như nghiện hút ma tuý, cờ bạc, rượu, chè (nguyên nhân này chiếm đa số).

- Do sự bất đồng về nhận thức, quan điểm, lối sống, do vợ hoặc chồng ngoại tình...

- Do chính nạn nhân không dám lên tiếng để tự bảo vệ…

* Nhóm nguyên nhân từ phía xã hội:

- Trong xã hội ta hiện nay vẫn còn tồn tại khá phổ biến tình trạng bất bình đẳng giới và tư tưởng "trọng nam khinh nữ"; định kiến giới, vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương... 

- Thiết chế pháp luật vẫn thiếu những quy định pháp lý cụ thể trong phòng chống bạo lực gia đình.

- Các tổ chức đoàn thể xã hội ở các cụm dân cư vẫn chưa quan tâm đúng mức tới việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các hội viên trong địa bàn của mình, chưa có những giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa và ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.v.v…

2. Các hành vi bạo lực gia đình.

Theo qui định của Luật Phòng chống bạo lực gia đình thì: hành vi bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.

Như vậy, để xác định một hành vi là hành vi bạo lực gia đình, căn cứ vào hai điều kiện: một là, yếu tố “lỗi cố ý”, tức là không phải bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong gia đình cũng được coi là bạo lực gia đình; hai là, người bị tổn hại phải là thành viên trong gia đình.

Theo đó, Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình qui định các hành vi bạo lực gia đình gồm có 4 nhóm hành vi lớn sau:

Nhóm 1, nhóm hành vi bạo lực về  thể chất: bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng.          Nhóm 2, nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở; cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Nhóm 3, nhóm hành vi bạo lực  về kinh tế: bao gồm chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.

Nhóm 4, nhóm hành vi bạo lực  về tình dục: gồm có hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.

3. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình.

Theo điều 4 Luật phòng chống bạo lực gia đình, người có hành vi bạo lực gia đình có nghĩa vụ: tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực; chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối; bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

4. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình.

Nạn nhân bạo lực gia đình là người bị tổn hại về sức khoẻ, tính mạng, bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm và các tổn hại khác do hành vi bạo lực gia đình gây ra.

Việc quy định các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình nhằm hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân. Các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khoẻ, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;

- Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc;

- Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;

- Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Đồng thời với quyền, nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.

5. Các biện pháp phòng chống bạo lực gia đình.

Phòng ngừa bạo lực gia đình có mục đích tránh những hậu quả, thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi bạo lực gia đình. Luật phòng chống bạo lực gia đình quy định các biện pháp cụ thể trong phòng ngừa bạo lực gia đình tại chương II. Cụ thể:

Các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình bao gồm:

- Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình:

Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thông tin, tuyên truyền phải đảm bảo chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hoá, bản sắc dân tộc, tôn giáo; không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình.

Nội dung thông tin, tuyên truyền tập trung vào: chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình; truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt nam; tác hại của bạo lực gia đình; biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hoá và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.

Về hình thức: việc thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình được thực hiện thông qua các hình thức: thực hiện trực tiếp; thông qua phương tiện thông tin đại chúng; lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hoá quần chúng khác…

- Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.

Hoà giải mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình là trách nhiệm của gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; của cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc sinh sống của các thành viên gia đình; tổ hoà giải ở cơ sở. Việc hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp tuân thủ các nguyên tắc tại Điều 12 của Luật.

 Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức hoà giải ở cơ sở thực hiện hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.

- Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình.

Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư, trong đó tập trung vào các đối tượng: người có hành vi bạo lực gia đình; nạn nhân bạo lực gia đình; người nghiện rượu, ma tuý, đánh bạc; người chuẩn bị kết hôn. Các nội dung tư vấn chủ yếu là cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.

Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, biện pháp góp ý, phê bình chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có bạo lực gia đình đã được tổ hoà giải ở cơ sở hoà giải mà tiếp tục có bạo lực gia đình. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này là người đứng đầu cộng đồng dân cư (trưởng thôn, làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố hoặc người đứng đầu đơn vị).

Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình.

6. Các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình:

a.Phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình

- Người phát hiện bạo lực gia đình phải kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 23 và khoản 4 Điều 29 của Luật này.

- Cơ quan công an, Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về bạo lực gia đình có trách nhiệm kịp thời xử lý hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xử lý; giữ bí mật về nhân thân và trong trường hợp cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ người phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình.

b.Biện pháp ngăn chặn, bảo vệ

1. Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm:

- Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình;

- Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình;

- Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình;

- Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân (sau đây gọi là biện pháp cấm tiếp xúc).

2. Người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.

7. Xử lý vi phạm pháp luật về Phòng chống bạo lực gia đình.

a. Qui định chung: Tại Chương V Luật PCBLGĐ qui định:

+ Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật

+ Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi BLGĐ nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.

b. Văn bản cụ thể: Ngày 10/12/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2009/NĐ – CP qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bạo lực gia đình. Theo đó:

+ Về hình thức xử lý: Tuỳ theo tính chất, mức độ của hình vi vi phạm, người vi phạm sẽ bị xử lý bằng 1 trong những hình thức xử phạt chính là:

- Cảnh cáo

- Phạt tiền; Trong đó: mức phạt tiền thấp nhất là 100.000đ và cao nhất là 30.000.000đ.

+ Đối tượng áp dụng của Nghị định: Là các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình

+Tình tiết giảm nhẹ

- Người có hành vi bạo lực gia đình đã tự hạn chế, làm giảm bớt tác hại của hành vi bạo lực hoặc Tự nguyện khắc phục hậu quả, Bồi thường thiệt hại.

- Người có hành vi bạo lực gia đình đã tự nguyện khai báo và thành thật hối lỗi.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần.

- Người có hành vi bạo lực gia đình là người phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người già yếu, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

- Vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình do trình độ lạc hậu.

+ Tình tiết tăng nặng

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình có tổ chức.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình nhiều lần hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính do thực hiện hành vi bạo lực gia đình mà vẫn tái phạm.

- Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi bạo lực gia đình.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình trong tình trạng say do thùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.

- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm.

- Thực hiện hành vi bạo lực gia đình trong thời gian đang chấp hành hình phạt của Bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

- Tiếp tục thực hiện hành vi bạo lực gia đình mặc dù Người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó.

- Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.

8. Trách nhiệm phòng chống bạo lực gia đình.

- Cá nhân: chấp hành pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội; ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

- Gia đình có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện các biện pháp khác phòng, chống bạo lực gia đình.

- Các tổ chức đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, tham gia phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình và tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Các tin mới hơn
Một số điểm mới của Luật Giao dịch điện tử năm 2023(01/08/2023)
Quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ(02/06/2023)
Tài liệu tuyên truyền, phổ biến trên hệ thống truyền thanh cơ sở. (11/04/2023)
Văn phòng chính phủ ban hành Thông tư 01/2023/TT-VPCP 2023 về số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trên môi trường điện tử(07/04/2023)
Video bài giảng tập huấn nghiệp vụ về hòa giải cơ sở(28/09/2021)
Các tin cũ hơn
Tài liệu tập huấn hòa giải ở cơ sở (Một số quy định về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về đất đai)(04/06/2019)
Đề cương giới thiệu Luật khám bệnh, chữa bệnh(04/06/2019)
Video
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website
THƯ VIỆN ẢNH