Tài liệu tuyên truyền PL
Tài liệu tuyên truyền Bộ Luật Hình sự năm 2015
04/06/2019 04:13:00

Nhìn một cách tổng quát, BLHS năm 2015 có nhiều nội dung đổi mới, bao quát

Bộ  luật hình  sự  năm 2015  được  sửa  đổi,  bổ sung  bởi  Luật  số12/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 (sau đây gọi là BLHS năm 2015). Nhìn một cách  tổng quát, BLHS năm 2015 có nhiều nội dung đổi mới, bao quát cả phần những quy định chung  lẫn phầncác tội phạm cụ thể, trong đó có những nội dung mang tính đột phá trên tinh thần đổi mới  tư duy, đổi mới nhận  thức về chính sách hình  sự, về vấn đề  tội phạm và hình phạt. Bộ  luật đã phản ánh được những yêu cầu, đòi hỏi bức xúc của  thực  tiễn, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước và cũng là mong đợi của đông đảo quần chúng nhân dân. Sở Tư pháp xin trân trọng giới thiệu những nội dung mới sửa đổi bổ sung đến cán bộ, nhân dân trong tỉnh.

                       I. NHỮNG NỘI DUNG MỚI CƠ BẢN CỦA BLHS NĂM 2015

Bộ luật được thiết kế thành 03 Phần: Phần thứ nhất - Những quy định chung, gồm 12 chương, 107 điều  (từ Điều 1 đến Điều 107);Phần thứ hai - Các tội phạm, gồm 14 chương, 318 điều (từ Điều 108 đến Điều 425) quy định về 14 nhóm tội phạm cụ thể;Phần  thứ ba - Điều khoản thi hành gồm 01 điều (Điều 426) quy định về hiệu lực của BLHS.Có thể khái quát những nội dung mới cơ bản của BLHS năm 2015 trong năm điểm sau đây:

1. Những quy định của BLHS năm 2015 nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng theo tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù theo hướng phạt tiền là hình phạt chính không chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng như quy định của BLHS năm 1999 mà cả trường hợp phạm các tội nghiêm trọng. Riêng đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường thì phạt tiền là hình phạt chính có thể áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, BLHS đã mở rộng nội hàm của hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, trong trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ với thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần. Biện pháp này không áp dụng đối với người già yếu, phụ nữ có thai. Bộ luật cũng đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, hình phạt này được áp dụng cả đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.

Đồng thời, đối với hình phạt tù, Bộ luật khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người  lần đầu phạm  tội ít nghiêm  trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37), theo đó, tại Phần các tội phạm, số lượng các khoản không quy định hình phạt tù tăng từ 06 khoản lên 31 khoản so với quy định của BLHS năm 1999.

 Thứ hai, BLHS năm 2015 tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được khẳng định  tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách  tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TW và bám sát tinh  thần nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền  sống  của con người, theo đó, Điều 40  của BLHS đã xác định rõ tử hình là hình  phạt  đặc  biệt  chỉ áp  dụng  đối  với  người  phạm  tội  đặc  biệt nghiêm  trọng  thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

So với BLHS năm 1999, Bộ  luật này đã bổ sung thêm  trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; đồng thời bổ sung thêm 02 trường hợp không thi hành án tử hình là: (i) người đủ 75 tuổi trở lên; (ii) người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành án tử hình đối với họ. Quy định này nhằm góp phần hạn chế tử hình trên thực tế.

BLHS năm 2015 đã bỏ  tử hình ở 07  tội danh: (1) cướp tài  sản; (2)  sản xuất, buôn bán hàng cấm là lương thực, thực phẩm; (3) tàng trữ trái phép chất ma túy; (4)chiếm đoạt chất ma túy; (5) phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; (6) chống mệnh  lệnh; (7) đầu hàng địch. Đồng  thời, Bộ  luật cũng đã bỏ tội danh hoạt động phỉ trước đây có quy định hình phạt tử hình. Như vậy, BLHS năm 2015 vẫn còn duy trì hình phạt tử hình đối với 18 tội danh trong số 314 tội danh được quy  định trong BLHS  năm 2015  (chiếm  tỷ  lệ 5,73%)  thuộc 07/14 nhóm  tội phạm, giảm 11 tội danh (gần 06%) so với BLHS năm 1999 và giảm 04 tội danh (gần 03%) so với BLHS (sửa đổi năm 2009).

Thứ ba, BLHS năm 2015 có sự điều chỉnh mạnh mẽ trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là đối với các em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên, cụ thể là:

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Bộ luật đã thu hẹp đáng kể phạm vi trách nhiệm hình sự của đối tượng này, theo đó, các em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc 28 tội danh trong số 314  tội danh được quy định trong BLHS (chiếm  tỷ  lệ 8,91%) thuộc 04 nhóm  tội phạm: (1) các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; (2) các tội xâm phạm sở hữu; (3) các tội phạm về ma túy; (4) các tội xâm phạm an toàn công cộng. Ngoài ra, các em cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 0,63%) Đó là: tội giết người và tội cướp tài sản. Như vậy, có thể thấy, trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nghiêm trọng và tính phổ biến của hành vi phạm tội do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi gây ra trong thời gian qua cũng như dự báo trong thời gian tới, BLHS năm 2015 đã xác định nhóm các tội danh mà các em trong độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự (kể cả trường hợp chuẩn bị phạm tội) chủ yếu tập trung vào các tội gây hậu quả cho tính mạng, sức khỏe con người và an toàn công cộng.

BLHS năm 2015 cũng đã cụ thể hóa các điều kiện miễn trách nhiệm hình sự áp dụng riêng cho từng đối tượng người chưa thành niên (người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi), đồng thời, bổ sung 03 biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp các em được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là: (1) khiển trách; (2) hòa giải tại cộng đồng; (3) biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Bộ luật cũng quy định rõ điều kiện áp dụng từng biện pháp cụ thể nêu trên.

Một điểm mới đáng lưu ý trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên là BLHS năm 2015 quy định rõ trong 03 trường hợp người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích: (1) người bị kết án là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; (2) người bị kết án là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án do lỗi vô ý về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng; (3) người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp (giáo dục tại trường giáo dưỡng). Ngoài 03 trường hợp nêu trên, thì theo Điều 69 của BLHS, người  chưa thành niên bị kết án nhưng được miễn hình phạt cũng không bị coi là có án tích.

Thứ tư, theo BLHS năm 1999 thì phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối hành vi chuẩn bị phạm  tội là khá  rộng, bao gồm chuẩn bị phạm bất cứ  tội  rất nghiêm  trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nào được quy định trong BLHS. BLHS năm 2015 đãthu hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm tội, theo đó, người có hành vi chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 25 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 7,96%) thuộc 05 nhóm tội phạm (các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; các tội xâm phạm sở hữu; các  tội xâm phạm  trật  tự quản lý kinh  tế và các  tội xâm phạm an toàn công cộng).

Thứ năm, BLHS năm 2015 đã bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện với những quy định hết sức chặt chẽ nhằm tạo cơ hội cho những phạm nhân tích cực cải tạo tốt trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam giữ được sớm trở về với gia đình và tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình trong môi trường xã hội bình thường có sự giám sát của chính quyền địa phương và xã hội. Nếu trong thời gian thử thách mà người được tha tù trước hạn cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc phạm tội mới thì phải  trở  lại cơ sở giam giữ để chấp hành tiếp phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trong môi trường xã hội.

Thứ sáu, BLHS năm 2015 đã kế thừa và phát triển những quy định nhằm bảo

vệ  lợi ích chính đáng của các đối  tượng chính sách, đối  tượng yếu  thế trong xã hội, theo đó, Bộ luật quy định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng phạm tội là: (1) người đủ 70 tuổi trở lên; (2) phụ nữ có thai; (3) người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; (4) người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; (5) cha, mẹ, vợ, chồng, con của  liệt sĩ, người có công với cách mạng. Đồng  thời, Bộ  luật cũng có chính sách  tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội xâm hại đến những đối tượng như: (1) người ở trong tình trạng không thể tự vệ được; (2) người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; (3) người bị hạn chế khả năng nhận thức; (4) người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; (5) người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên.

Thứ bảy, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sứckhỏe, danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XIV), nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân (Chương XV) và nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXIV) theo hướng tiếp tục tăng cường bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên tinh thần Hiến pháp năm 2013 với những chế tài nghiêm khắc; bổ sung một số quy định mới để xử lý hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, quyền tự do ngôn luận,  tự do báo chí,  tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đồng  thời, có chính sách xử lý nghiêm khác  hơn đối với các  tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân.

2. Những quy định của BLHS năm 2015 góp phần bảo vệ và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ nhất, lần đầu tiên trong  lịch sử  lập pháp hình sự nước ta, chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân  thương mại đã được bổ sung vào BLHS, và được  thể hiện  tập trung  tại Chương XI của BLHS, gồm 16 điều (từ điều 74 - 89) và trong 08 điều khác thuộc Phần những quy định chung của Bộ luật (các điều 2, 3, 8, 9, 33, 35, 46 và 60) cũng như 33 điều thuộc Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật. Đây là điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình  sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền thống về vấn đề tội phạm và hình phạt.

 Phải nói  rằng, việc bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào BLHS xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn và là kết quả của gần 16 năm (từ

1999 đến nay) kiên trì, bền bỉ nghiên cứu, đề xuất của Chính phủ và đã được Quốchội chấp thuận nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp  luật của pháp nhân trong  thời gian qua, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra.

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, hết sức phức tạp, do vậy, để bảo đảm sự thận trọng trong việc quy định chính sách mới, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, BLHS năm 2015 đã xác định rõ giới hạn áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng hẹp cả về chủ  thể  lẫn về  loại  tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:

- Về chủ thể, Điều 2 của BLHS quy định chế định này chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại;

- Về  loại  tội, Bộ  luật (Điều 76) quy định pháp nhân  thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 33  tội danh được  liệt kê cụ  thể  tại Điều 76 của BLHS(chiếm tỷ lệ 10,50%), trong đó có 22 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về kinh tế, 09 tội danh  thuộc nhóm các  tội phạm về môi  trường và chỉ có 02  tội danh  thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đồng thời, Bộ luật (Điều 75) cũng quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân  thương mại phải chịu trách nhiệm hình  sự, bao gồm: hành vi phạm  tội được  thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm  tội được  thực hiện có  sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp  thuận của pháp nhân; hành vi phạm  tội được  thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại Điều 33 và Điều 46 của BLHS bao gồm:

- 03 hình phạt chính: Phạt  tiền; đình chỉ hoạt động có  thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

- 03 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vựcnhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

- 04 biện pháp tư pháp: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra).

Thứ hai, BLHS năm 2015 (chương XVIII)  đã sửa  đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế theo hướng phi tội phạm hóa đối với 04 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999. Đó là các tội: (1) kinh doanh trái phép; (2) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (3) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (4)  sử dụng trái phép quỹ dự  trữ bổ sung vốn điều  lệ của  tổ chức tín dụng; đồng thời, bổ sung 16 tội danh mới trong các lĩnh vực kinh tế, trong đó, tội vi phạm quy định kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a) được bổ sung theo Luật  số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017.  Đặc  biệt,  Bộ  luật quy  định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 22 tội danh trong chương này10. Đó là các  tội  thuộc  lĩnh  vực  sản  xuất, kinh doanh,  lưu thông hành hóa;  thuế,  chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực kinh tế khác. Ngoài ra, Bộ luật cũng tăng phạt tiền với tính cách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Thứ ba, Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đồng thời tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, tránh sự tùy tiện trong áp dụng, trên cơ sở cân nhắc kỹ kết quả tổng kết  thực  tiễn xét xử về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh  tế gây hậu quả nghiêm trọng trong những năm qua, đồng thời, rà soát quy định của các luật chuyên ngành trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các tội danh hiện có trong Chương XVIII - Các  tội xâm phạm  trật  tự kinh  tế  (gồm 38 điều), Bộ  luật hình sự đã thay  thế Điều 165 BLHS hiện hành bằng 09  tội danh mới thuộc các  lĩnh  vực:  quản lý  cạnh tranh,  đầu  tư công;  quản lý,  sử  dụng tài  sản nhà nước;  quản lý,  sử  dụng  vốn nhà  nước  đầu  tư vào  sản  xuất kinh doanh  tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất, quy định cụ thể tại các điều: 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224 và Điều 230 của Bộ  luật hình sự. Đồng  thời, bổ sung một số tội danh nhằm đấu tranh chống các hành vi nguy hiểm mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường trong các lĩnh vực như: vi phạm quy định về cạnh tranh, vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp...

Thứ tư, BLHS năm 2015 (chương XIX) đã sửa đổi cơ bản nhóm các tội phạm về môi trường theo hướng cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường; quy định chế tài nghiêm khắc đối với các tội phạm về môi trường, trong đó có việc tăng mức phạt tiền (cả phạt chính và phạt bổ sung); đồng thời, bổ sung tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình  thủy  lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238). Đặc biệt, Bộ luật quy định pháp nhân thương mại  phải  chịu trách  nhiệm hình  sự  đối  với 09  tội danh trong  chương này. Đó là những  tội phạm gây ô nhiễm cho môi  trường, hủy hoại các loài động vật,  thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái.

3.Những quy định  của BLHS năm 2015 góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm;  tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trong tình hình mới; góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Thứ nhất, để bảo đảm phù hợp và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiến mới, BLHS đã phi tội phạm hóa đối với 06 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999. Đó là các tội: (1) tảo hôn; (2) kinh doanh trái phép; (3) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (4) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (5)  sử dụng trái phép quỹ dự  trữ bổ sung vốn điều  lệ của  tổ chức tín dụng; (6) không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.

Thứ hai, cùng với việc phi  tội phạm hóa, BLHS năm 2015 đã bổ sung 34  tội danh mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo đó, ngoài 17 tội danh về kinh tế, môi  trường mới được bổ sung như đã nêu trên, Bộ  luật còn bổ sung 17  tội danh mới  thuộc 07 nhóm  tội phạm khác, đặc biệt là nhóm  tội phạm trong  lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông đang có chiều hướng gia tăng.

Thứ ba, Bộ luật (Chương XVI) đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu theo hướng bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh  thần của Hiến pháp 2013; tăng mức phạt tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu; đồng thời, cụ thể hóa hành vi phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với các tội phạm thuộc nhóm này, nhất là cụ thể hóa trường hợp xử lý hình sự đối với hành vi trộm  cắp tài  sản có giá  trị  dưới mức  định  lượng  tối  thiểu 02  triệu  đồng  nhằm góp phần  bảo  vệ tài  sản  của nhân dân,  nhất là  người nghèo (quy  định  tại  khoản 1 các Điều: 173, 174 BLHS.

Thứ tư, BLHS năm 2015 đã bổ sung một chương riêng (chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26)13 nhằm tạo hành lanh pháp lý an toàn để khuyến khích người dân an tâm, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất "đột phá" vì lợi ích chung.

Thứ năm, BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thể hiện ở ba điểm cơ bản: (1) Điều 28  của Bộ  luật  đã  bổ sung quy  định không áp  dụng  thời  hiệu truy  cứu trách nhiệm hình sự đối với  tội tham ô,  tội nhận hối  lộ  thuộc  trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm truy đến cùng những tội  phạm tham  nhũng  lớn, góp  phần  tăng  cường công tác  đấu tranh phòng,  chống tham nhũng; (2) Điều 61 của Bộ luật đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu thi hành bản án đối với  tội tham ô,  tội nhận hối  lộ  thuộc  trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; (3) BLHS đã mở rộng phạm vi một số  tội tham nhũng cũng như một số  tội  thuộc Chương XXIII. Các  tội phạm về chức vụ ra cả khu vực  tư (ngoài Nhà nước), theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà thực hiện hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ thì cũng bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các điều 353, 354 của BLHS. Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới hối  lộ theo quy định  tại các điều 364, 365 của BLHS. Quy định này nhằm góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đồng thời, cũng để thực thi Công ước về chống tham nhũng mà nước ta là thành viên.

4. Những quy định của BLHS năm 2015 nhằm nội luật hóa các qui định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm

Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội theo hướng bên cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã được quy định trước đây (như: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm), còn bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể (Điều 14). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm, đồng thời phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

Thứ hai, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành của tội mua bán ngườivà tội mua bán người dưới 16 tuổi (các điều 150, 151) trên tinh thần Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Thứ ba, Bộ  luật đã bổ sung  tội cưỡng bức lao động,  tội bắt cóc con tin và  tội cướp biển (các điều 297, 301, 302) trên tinh  thần các quy định của Công ước số 29 của ILO về lao động cưỡng bức năm 1930, Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.

Thứ tư, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung tội rửa tiền (Điều 324) và tội tài trợ khủng bố  (Điều 300) nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về phòng, chống rửa tiền. Trong đó, như đã trình bày ở phần trên, tội rửa tiền (Điều 324) và tội tài trợ khủng bố (Điều 300) BLHS đã bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hai tội này.

Thứ năm, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; tội dùng nhục hình và tội bức cung (các điều 157, 373, 374) trên tinh thần Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhânđạo hoặc hạ nhục.

5. Những điều chỉnh cơ bản về mặt kỹ thuật lập pháp trong BLHS năm 2015

BLHS  năm 2015 có những điều  chỉnh về mặt kỹ  thuật  lập pháp theo hướng nâng cao tính minh bạch trong các quy định của BLHS; bảo đảm tính thống nhất về mặt kỹ thuật giữa Phần chung và Phần các tội phạm cụ thể của BLHS và giữa BLHS với các luật khác. Đáng chú ý là:

Thứ nhất, Bộ luật đã thay thế tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) bằng một loạt các tội danh cụ thể trong các lĩnh vực kinh tế, theo đó, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung 15 tội danh có tính chất "cố ý làm trái" trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 1999 cho phù hợp với tình hình mới, BLHS năm 2015 còn bổ sung thêm một số tội danh mới trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, bao quát các lĩnh vực thường hay xảy ra vi phạm.

Thứ hai, Bộ luật đã cụ thể hóa tối đa các dấu hiệu định tội, định khung mang tính chất định tính, trừu tượng (về hậu quả, thu lợi bất chính, số lượng, ...) trong cấu thành của hầu hết các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an toàn công cộng,  trật  tự công cộng trên cơ  sở rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS hiện hành,  lựa chọn những nội dung hướng dẫn về các tình  tiết này đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định là còn phù hợp nhằm tăng tính minh bạch, rõ ràng của BLHS.

Thứ ba, Bộ luật đã tách một số các tội phạm ghép trong BLHS năm 1999 thành các tội danh độc lập để có sự phân hóa trong chính sách xử lý.

                                    II. NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI CỤ THỂ TRONG TỪNG CHƯƠNG CỦA BLHS NĂM 2015

1. Chương I. Điều khoản cơ bản: gồm 04 điều (từ Điều 1 đến Điều 4)

- Bổ sung nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của BLHS (Điều 1);

- Bổ sung cơ sở trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 2);

- Bổ sung các nguyên tắc xử lý pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 3).

2. Chương II. Hiệu lực của Bộ luật hình sự: Gồm 03 điều (từ Điều 5 đến Điều 7)

- Bổ sung quy định về hiệu lực áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quảcủa hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. (khoản 1 Điều 5)

- Bổ sung quy định đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  thuộc đối  tượng được hưởng quyền miễn  trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó. (khoản 2 Điều 5)

- Bổ sung quy định đối với hành vi phạm  tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc  tịch Việt Nam đang ở  tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định. (Điều 6);

- Bổ sung hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với trường hợp pháp nhân  thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm.

3. Chương III. Tội phạm: bao gồm 12 điều (từ Điều 8 đến Điều 19)

- Sửa đổi khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8);

- Tách quy định phân loại tội phạm thành một điều riêng, đồng thời sửa đổi căn cứ phân  loại  tội phạm  (Điều 9); bổ sung quy định phân  loại pháp nhân  thương mại phạm tội;

- Thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, các em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc  tội phạm đặc biệt nghiêm  trọng  thuộc 28  tội danh trong số 314  tội danh được quy định trong BLHS thuộc 04 nhóm tội phạm: (1) các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; (2) các tội xâm phạm sở hữu; (3) các tội phạm về ma túy; (4) các tội xâm phạm an toàn công cộng;

- Sửa đổi bổ sung chế định chuẩn bị phạm tội (Điều 14) theo hướng: (i) thu hẹp chỉ xử lý hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 21 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 6,68%). Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh: giết người (Điều 123); cướp tài sản (Điều 168); (ii) bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể. Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm, phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

- Sửa đổi, bổ sung chế định đồng phạm theo hướng quy định cụ thể nguyên tắc người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành (khoản 4 Điều 17); .

- Sửa đổi quy định liên quan đến hành vi che giấu  tội phạm và không  tố giác tội phạm theo hướng loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người che giấu hoặc không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác;

- Sửa đổi quy định liên quan đến hành vi không tố giác tội phạm của người bào chữa: theo đó không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa  trừ  trường hợp không  tố giác các  tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác (khoản 3 Điều 19). Khi xử lý khoản này cần lưu ý: người bào chữa phải chịu TNHS về hành vi không tố giác tội phạm khi hành vi đó là hành vi khác mà không phải là hành vi mà họ đang 18thực hiện trách nhiệm bào chữa; hành vi đó cấu thành tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác.

4.Chương IV. Những trường hợp  loại trừ trách nhiệm hình sự: bao gồm 07 điều (từ Điều 20 đến Điều 26). Tách thành một Chương riêng quy định:

- Các trường hợp loại trừ TNHS đã có trong BLHS;

- Bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ TNHS: (i) Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; (ii) Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và (iii) Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (tại các điều 24, 25, 26).

5. Chương V. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự: bao gồm 03 điều (từ điều 27 đến điều 29)

- Bổ sung  trường hợp không áp dụng  thời hiệu truy cứu TNHS đối với người phạm tội tham ô tài sản, nhận hối lộ đặc biệt nghiêm trọng;

- Cụ thể hóa các căn cứ miễn TNHS. Theo đó, BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các  trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự  (Điều 29) theo hướng: (i) phân biệt trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình  sự; (ii) bổ sung một  số  trường hợp có  thể được miễn trách nhiệm hình sự nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay (khoản 2 Điều 29);

6. Chương VI. Hình phạt: bao gồm 16 điều (từ điều 30 đến điều 45)

- Mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền:

+ Hình  phạt  tiền không  chỉ là hình  phạt chính  được áp  dụng  đối  với người phạm các tội ít nghiêm trọng mà còn được áp dụng là hình phạt chính đối với một số tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng đối với một số nhóm tội phạm cụ thể thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản quản lý kinh tế, môi trường.

- Bổ sung quy định về trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ mà không có việc làm ổn định hoặc mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải lao động phục vụ cộng đồng.

- Thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù: hình phạt này không áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý.

- Thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình: Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tử  hình, cụ thể như sau:

+ Bãi bỏ hình phạt  tử hình đối với 08 tội, trong đó có 05  tội là bỏ hoàn toàn gồm: Tội hoạt động phỉ  (Điều 83); Tội cướp tài  sản  (Điều 168); Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều 394); Tội đầu hàng địch (Điều 399); 03 tội bỏ hình phạt tử hình trên cơ sở tách ra từ các tội có quy định hình phạt tử hình trước đó gồm: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là  lương  thực,  thực phẩm, phụ gia  thực phẩm (Điều 193); Tội tàng  trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); 

+ Bổ sung đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử (điểm c khoản 2 Điều 40);

+ Mở rộng thêm 02 trường hợp không thi hành án tử hình gồm: (i) người từ đủ 75 tuổi trở lên và (ii) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (điểm b, c khoản 3 Điều 40). Quy định cụ thể trong trường hợp này sẽ chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân (khoản 4 Điều 40 và khoản 6 Điều 63) nhằm góp phần hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế

- Bổ sung các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

- Quy định rõ hình phạt bổ sung tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

7. Chương VII. Các biện pháp tư pháp:  gồm 04 điều (từ Điều 45 đến Điều 49)

- Bổ sung 01 điều quy định rõ các biện pháp tư pháp áp dụng đối với cá nhân và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

- Chỉnh lý về kỹ thuật đối với quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

8. Chương VIII. Quyết định hình phạt: gồm 10 điều (từ Điều 50 đến Điều 59)

- Tách thành 02 mục: i) Mục 1 - Quy định chung về quyết định hình phạt; và ii) Mục 2 - Quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bổ sung các tình  tiết giảm nhẹ như: người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng,... và các chỉnh lý về kỹ thuật đối với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Sửa đổi quy định việc quyết định hình phạt trong một số trường hợp cụ thể, như quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng: bổ sung quy định Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu với vai trò là người giúp sức trong vụ án có đồng phạm nhưng vai trò không đáng kể.

9. Chương IX. Thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt:  gồm 09 điều (từ Điều 60 đến Điều 68)

- Bổ sung chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Về bản chất, đây là việc trả  tự do  sớm  đối  với  người  đang  chấp hành hình  phạt tù; sau khi  được  trả  tự do, người đó phải tuân  thủ một  số điều kiện nhất định do  cơ quan có  thẩm quyền xác định trong một thời gian tạm gọi là thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách mà người phạm  tội vi phạm các điều kiện đặt ra thì tùy  từng  trường hợp cụ  thể, cơ quan có  thẩm quyền có  thể thay đổi điều kiện  thử thách hoặc có  thể buộc người đó phải chấp hành hết thời hạn còn lại của hình phạt tù trong trại giam. Về bản chất, biện pháp này tương tự như  quy định về án treo, chỉ khác nhau về thời điểm áp dụng. 

- Sửa đổi, bổ sung chế định về giảm hình phạt theo hướng phân hóa cụ thể hơn trường hợp phạm một tội và trường hợp phạm nhiều tội để đảm bảo tính công bằng; quy định cụ thể trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và tăng mức thời gian thực tế phải chấp hành từ 20 năm lên 25 năm.

- Bổ sung quy định đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thựchiện hành vi phạm  tội mới ít nghiêm  trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm  lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

- Bổ sung quy định đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của BLHS thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.

10. Chương X. Xóa án tích: gồm 05 điều luật (từ Điều 69 đến Điều 73)

- Sửa đổi, bổ sung các điều kiện xóa án tích theo hướng:

+ Rút ngắn  thời hạn để được xóa án tích so với quy định hiện hành,  tạo điều

kiện cho người bị kết án sớm hòa nhập cộng đồng.

+ Quy định rõ thời điểm xóa án tích được tính từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính (quy định hiện hành là từ khi chấp hành xong bản án) hoặc từ khi bản án hết  thời hiệu thi hành. Các hình phạt bổ sung hoặc các quyết định khác trong bản án thì người bị kết án buộc phải chấp hành trong thời hạn xem xét xóa tích.

+ Sửa đổi điều kiện "không phạm  tội mới" bằng quy định "không  thực hiện hành vi phạm tội mới".

 + Bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người được đương nhiên xóa án tích, quy định trách nhiệm của Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phải cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện và khi được yêu cầu.

- Xác định rõ những trường hợp không bị coi là có án tích bao gồm người bị kết án do lỗi vô ý về một tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, người được miễn hình phạt.

- Bổ sung quy định về xoá án tích đối với người bị kết án do phạm nhiều tội mà có  tội  thuộc  trường hợp đương nhiên xóa tích, có  tội  thuộc  trường hợp xóa án tích theo quyết định của tòa án thì việc xóa tích đối với họ do Toà án quyết định.

11. Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Đây là chương mới được bổ sung tại BLHS năm 2015 gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 89)

- Quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 31 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS;

- Quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự: i) hành vi phạm  tội được  thực hiện nhân danh pháp nhân; ii) hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; iii) hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và iv) chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Quy định cụ thể hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định  tại Điều 33 và Điều 46  của BLHS bao gồm 03 hình phạt chính (phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn), 03 hình phạt bổ sung (cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số  lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính) và 04 biện pháp tư pháp (tịch thu vật,  tiền  trực  tiếp liên quan đến  tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục  lại tình  trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra).

- Quy định về các căn cứ quyết định hình phạt, các tình  tiết giảm nhẹ TNHS,các tình tiết tăng nặng TNHS, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, miễn hình phạt và xóa án tích đối với pháp nhân phạm tội.

12. Chương XII. Những quy  định  đối  với  người  dưới 18  tuổi  phạm  tội: gồm 18 điều từ Điều 90 đến Điều 107, chia 05 mục: (1) Mục 1. Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi; (2) Mục 2. Các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự; (3) Mục 3. Biện pháp tư pháp giáo dục  tại  trường giáo dưỡng; (4) Mục 4. Hình phạt; (5) Mục 5. Quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt, xóa án tích.

- Thay  thuật  ngữ  "người  chưa thành niên"  bằng  thuật  ngữ  "người  dưới 18 tuổi", "trẻ em" bằng thuật ngữ "người dưới 16 tuổi".

- Sửa đổi khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự, theo hướng mở  rộng việc miễn trách nhiệm hình  sự đối với  cả người  từ đủ 14  tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn trách nhiệm hình sự.

 - Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội: bổ sung nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên; sửa đổi

khoản 4 và khoản 6 Điều 69 BLHS năm 1999 theo cách tiếp cận phù hợp hơn trong chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Bổ sung 01 mục quy  định  cụ  thể các  biện pháp giám sát, giáo  dục trong trường hợp người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về hệ thống chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng tăng cường khả năng áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

- Bổ sung các quy  định  về  quyết  định hình  phạt trong  trường  hợp  chuẩn  bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện.

- Sửa đổi các quy định về xóa án tích đối với người chưa thành niên bị kết án theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các em tái hoà nhập cộng đồng, theo đó, xác định rõ 03 trường hợp được coi là không có án tích: i) người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; ii) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; iii) người bị áp dụng biện pháp  tư pháp giáo dục  tại  trường giáo dưỡng. Đồng  thời xác định rõ, đối với người dưới 18  tuổi được đương nhiên xóa án tích trong mọi  trường hợp và  thời hạn để xoá án tích là 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới.

13. Chương XIII. Các  tội xâm  phạm an ninh  quốc gia:  gồm 15  điều,  từ Điều 108 đến Điều 122

- Bổ sung quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội tại một số điều luật quy định về tội phạm cụ thể về an ninh quốc gia.

- Sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành tội phạm tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Tách Điều 91 BLHS 1999 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm  chống chính quyền nhân dân) thành hai  tội danh độc  lập là Tội  tổ  chức, xúi giục hoặc cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích  chống chính quyền nhân dân  (Điều 120) và Tội  trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân (Điều 121).

- Chuyển hóa hành vi phạm tội của tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83 BLHS 1999 thành các hành vi cấu thành các tội khác (trên cơ sở đó bỏ tội hoạt động phỉ)

14. Chương XIV. Các  tội xâm  phạm tính mạng,  sức  khỏe, nhân  phẩm, danh dự của con người: gồm 34 điều, từ Điều 124 đến Điều 156

- Quy định là  tội phạm đối với các hành vi:  sử dụng người dưới 16  tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154).

- Sửa đổi nội hàm khái niệm "giao cấu" quy định tại các tội xâm hại tình dục theo hướng bao gồm: hành vi giao cấu theo quan niệm truyền thống và hành vi quan hệ tình dục khác.

- Sửa đổi tội mua bán người và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo hướng phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này và đáp ứng yêu cầu của Nghị định thư. Đồng thời tách tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thành 03 tội danh độc lập.

- Bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với một số tội danh: tội về gây thương tích như tội cố ý gây thương hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội vô ý gây  thương tích hoặc gây  tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.

15. Chương XV. Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền, tự do dân chủ của công dân: gồm 11 điều (từ Điều 157 đến Điều 167)

- Sửa đổi tên chương "Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền, tự do dân chủ của công dân" vì nếu chỉ là "Các tội xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân" là quá hẹp, chưa thể hiện hết nội hàm các quy định trong Chương này.

- Cụ thể hóa các hành vi cấu thành tội phạm và các tình tiết định tính cấu thành định tội hoặc định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Hình sự hóa một số hành vi xâm phạm quyền tự do của con người, quyền dân chủ của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013. Bộ luật bổ sung 01 tội xâm phạm quyền  tự do ngôn  luận,  tự do báo chí,  tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân; bổ sung hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân vào  tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử, bổ sung hành vi làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân vào tội làm sai lệch kết quả bầu cử.

-  Tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm cụ thể

+ Tăng mức hình phạt cao nhất đối với Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đến 12 năm tù, Tội xâm phạm  chỗ ở  của người khác đến 5 năm tù, Tội buộc, công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật đến 03 năm tù v.v…

+ Bỏ hình phạt cảnh cáo đối với một số tội (Tội bắt, giữ hoặc giam người trái

pháp luật, Tội xâm phạm chỗ ở của người khác, Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý của công dân, Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo v.v…) để bảo đảm chính sách xử lý nghiêm khắc hơn đối với các hành vi xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân.

+ Bổ sung hình phạt  tiền là hình phạt chính đối với  tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật.

16. Chương XVI. Các tội xâm phạm sở hữu: gồm 13 Điều (từ Điều 168 đến Điều 180)

- Bổ sung thêm đối  tượng tài sản bị xâm hại là phương  tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, tài sản là cổ vật, di vật đối với các  tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174)

- Mở rộng khách  thể bảo vệ  tại Điều 144. Tội  thiếu trách nhiệm gây  thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (BLHS 1999) theo hướng bảo vệ đối với cả tài sản của tổ chức, doanh nghiệp.

- Cụ  thể hoá các tình  tiết định tính, định  lượng, định khung  tăng năng trách nhiệm hình sự.

- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

17. Chương XVII. Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình: gồm 07 điều (từ Điều 181 đến Điều 187)

- Hình sự hóa hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187);

- Chuyển hóa tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS 1999) trong cấu thành tội Đăng ký hộ tịch trái pháp luật. 

- Phi hình sự hóa đối với tội tảo hôn: Tội tảo hôn được quy định tại Điều 148 BLHS 1999 nhưng xét về bản chất thì tính nguy hiểm của hành vi này không cao, do đó, chỉ cần xử lý các hành vi này theo chế tài hành chính là phù hợp.

- Cụ thể hóa một số tình tiết định tội tại một số điều luật: Ví dụ: tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã được cu thể hóa thành các hậu quả như "làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn", "Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát" hoặc tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thành các hậu quả "Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần".

- Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung đối với điều này để đáp ứng yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng hành vi phạm tội cụ thể Tội loạn luân và Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình.

18. Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: gồm 47 điều (từ Điều 188 đến Điều 234), chia 03 mục: (1) Mục 1- Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; (2) Mục 2- Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; (3) Mục 3- Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

- Phi tội phạm hóa đối với 03 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999: (1) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (2) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (3) sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; thay thế hành vi phạm tội của tội kinh doanh trái phép trong một số cấu thành cụ thể, trên cơ sở đó bỏ tên tội kinh doanh trái phép.

- Bổ sung 15 tội danh mới trong các  lĩnh vực kinh  tế để đáp ứng  thực  tiễn cuộc sống và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

- Thay thế tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999). Trên cơ sở cân nhắc kỹ kết quả tổng kết thực  tiễn xét xử về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh  tế gây hậu quả nghiêm trọng trong những năm qua, đồng thời, rà soát quy định của các luật chuyên ngành trên các  lĩnh vực quản lý kinh  tế, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các  tội danh hiện có trong Chương XVIII

- Các tội xâm phạm trật tự kinh tế (gồm 38 điều), Bộ  luật hình sự đã thay  thế Điều 165 BLHS hiện hành bằng 09  tội danh mới  thuộc các  lĩnh  vực:  quản lý  cạnh tranh,  đầu  tư công;  quản lý,  sử  dụng tài  sản nhà  nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài  sản; kế toán; quản lý  thuế; xây dựng; bồi  thường thu hồi đất, quy định cụ thể tại các điều: 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224 và Điều 230 của Bộ luật hình sự.

- Tách một số tội phạm ghép thành các tội phạm độc lập, riêng rẽ: (1) Tội sản xuất, tàng  trữ, vận  chuyển, buôn bán hành cấm quy định  tại Điều 155 BLHS 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập tại BLHS 2015 đó là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tại Điều 157 BLHS 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập là tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm (Điều 193) và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh (Điều 194).

- Quy định cụ thể các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

- Quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 22 tội danh trong  chương này:  thuộc  lĩnh  vực  sản  xuất, kinh doanh,  lưu thông hành hóa; thuế, chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực kinh tế khác.

- Tăng phạt tiền với tính cách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

- Bỏ hình phạt tử hình đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm là lương thực, thực phẩm.

- Bổ sung Tội vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a)

19. Chương XIX. Các tội phạm về môi trường: gồm 12 Điều (từ Điều 235 đến Điều 246)

- Sửa  đổi  cấu thành các  tội  phạm  về môi  trường theo  hướng  cụ  thể hóa các hành vi và quy  định mức  định  lượng vi  phạm  cụ  thể:  tội gây ô  nhiễm môi  trường (Điều 235),  tội vi phạm các quy định về quản lý chất  thải nguy hại  (Điều 236),  tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239),...

- Bổ sung 01 tội danh mới: Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trìnhthủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa, đê điều và công trình phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238) nhằm xử lý các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều, phòng, chống thiên tai; bảo vệ bờ, bãi sông; các hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng công trình thủy lợi, đê điều, phòng chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; không tuân thủ quy trình, quy chuẩn vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, công trình phân lũ, làm chậm lũ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành gây hậu quả nghiêm trọng.

- Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với đa số các tội phạm về môi trường. Đó là: tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); tội vi phạm quy định về quản lý  chất  thải nguy hại  (Điều 236);  tội đưa  chất  thải vào lãnh  thổ Việt Nam (Điều 236), tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường  (Điều 237), Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình  thủy  lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238), tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239), tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 242), tội hủy hoại rừng (Điều 243), tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244), tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245), tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246).

- Mở rộng phạm vi áp dụng và nâng mức phạt tiền: Hình phạt tiền đã được bổ sung tại khung cơ bản tại khoản 1 Điều 241. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (đây là điều  luật duy nhất không quy định hình phạt  tiền  tại khung cơ bản  tại BLHS 1999). Hình phạt tiền đã được quy định tại khung tăng nặng của một số tội (ví dụ: tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm).

20. Chương XX. Các  tội phạm về ma túy: gồm 13 Điều,  từ Điều 247 đếnĐiều 259.

- Tách tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS 1999) thành 04 tội danh độc lập. Tách tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200 BLHS 1999) thành 02 tội danh độc lập.

- Bỏ hình phạt tử hình đối với tội tàng trữ và tội chiếm đoạt chất ma tuý.

- Cụ  thể hóa môt số các tình  tiết định  tội, định khung  tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Bổ sung thêm một số chất ma túy mới.

21. Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: gồm 70 Điều,  từ Điều 260 đến Điều 329, chia thành 04 mục: Mục 1. Các  tội xâm phạm an toàn giao thông; Mục 2. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông; Mục 3. Các tội phạm khác xâm phạm an toàn công cộng; Mục 4. Các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng

- Bổ sung 08 tội danh mới quy định tại các điều; Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật; Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng; Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng  viễn thông; Điều 293. Tội  sử  dụng trái phép  tần  số vô  tuyến  điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh; Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại; Điều 297. Tội cưỡng bức lao động; Điều 301. Tội bắt cóc con tin; Điều 302.Tội cướp biển.

- Bãi bỏ Điều 292 (Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông).

- Bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối 32với các  tội xâm phạm an toàn công cộng,  trật  tự công cộng; cụ  thể hoá các tình  tiết định tính trong các cấu thành tội phạm.

- Sửa đổi các  tội phạm trong  lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

- Bỏ hình phạt tử hình đối với tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.

22. Chương XXII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính: gồm 22 Điều (từ Điều 330 đến Điều 351)

- Bổ sung vào Chương này tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật; đồng thời chuyển hóa tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS 1999) vào cấu thành của tội này.

- Cụ thể hóa các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

- Hình sự hóa hành vi sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và quy định hành vi này trong  cùng điều luật về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.

- Phi hình sự hóa đối với hành vi không chấp hành các quyết định hành chính của  cơ quan nhà nước có  thẩm quyền về việc đưa vào  cơ  sở giáo dục,  cơ  sở  chữa bệnh, quản chế hành chính.

- Tách một số tội danh, ví dụ: tách Tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại Việt Nam trái phép thành hai tội: Tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh; tội ở lại Việt Nam trái phép và Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở  lại Việt Nam trái phép; tách Tội  tổ chức, cưỡng ép người khác  trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thành hai tội: Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép và Tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

23. Chương XXIII. Các tội phạm về chức vụ: gồm 15 Điều (từ Điều 352 đến Điều 366)

- Mở rộng phạm vi một số tội tham nhũng cũng như một số tội thuộc Chương XXIII. Các  tội phạm về chức vụ ra cả khu vực  tư (ngoài Nhà nước):  tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội đưa hối lộ .

- Bổ sung quy định về xử lý hình sự đối với tội đưa hối lộ  cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công nhằm đáp ứng yêu cầu Công ước Chống tham nhũng.

- Ngoài lợi ích vật chất thì BLHS 2015 đã bổ sung hành vi đưa, nhận hoặc môi giới hối lộ "lợi ích phi vật chất" trong các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ nhằm đáp ứng yêu cầu Công ước Chống Tham nhũng và  thực  tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng.

- Bổ sung tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự tại các điều khoản quy định về tội phạm chức vụ.

24. Chương XXIV. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: gồm 25 Điều (từ Điều 367 đến Điều 391)

- Mở rộng khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp một cách khái quát "là những hành vi xâm phạm  sự đúng đắn  của hoạt động  tố  tụng và thi hành án" (Điều 367).

- Mở rộng phạm vi chủ thể một số tội phạm:

+ Chủ  thể  thực hiện  tội ra quyết định trái pháp  luật là "người có  thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án" (Điều 371).

+ Chủ thể của tội dùng nhục hình (Điều 373) là "người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án và thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ".

+ Chủ thể của tội bức cung là "người nào trong hoạt động tố tụng" (Điều 374).

- Thay thế thuật ngữ "nhân viên tư pháp" trong tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp  luật bằng   thuật ngữ "người có  thẩm quyền trong hoạt động  tư pháp" (Điều 372).

- Mở rộng phạm vi đối  tượng bỏ  trốn trong  tội  thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ  trốn  (Điều 376); đối  tượng được tha trái pháp  luật trong  tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ (Điều 378) theo hướng thay cụm từ "người bị giam, tạm giữ" quy định  tại tên điều  luật và khoản 1 các điều này bằng cụm  từ "người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù",...

- Bổ sung 02  tội danh mới: Tội vi phạm quy định về giam giữ (Điều 388) và

Tội gây rối trật tự phiên tòa (Điều 391).

- Bổ sung khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội dùng nhục hình, tội bức cung, tội không thi hành án, tội không chấp hành án.

- Nâng mức hình phạt cao nhất đối với một số tội: mười hai năm tù đối với tội raquyết định trái pháp luật; tù chung thân đối với tội dùng nhục hình và tội bức cung.

- Quy định cụ thể về các tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với các tội phạm cụ thể.

25.  Chương XXV. Các  tội xâm  phạm  nghĩa  vụ, trách  nhiệm  của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu: gồm 31 điều luật (từ Điều 392 đến Điều 420)

- Bổ sung thêm các đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự bao gồm cả những đối tượng là người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu và công nhân, viên chức quốc phòng.

- Hình sự hóa đối với hành vi  lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh  lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.

- Cụ thể hóa một số hành vi: ví dụ như hành vi chống mệnh lệnh khi quy định cụ thể hành vi chống mệnh lệnh là hành vi từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện của người có thẩm quyền.

- Bổ sung tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội danh ví dụ tình tiết phạm tội trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn hoặc trong tình trạng khẩn cấp v.v…

- Gộp một số tội danh, ví dụ: đối với một số tội danh như Tội làm nhục, hành hung người  chỉ huy hoặc  cấp trên; Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với  cấp dưới; Tội làm nhục, hành hung đồng đội trong BLHS 1999 được gộp thành hai tội là Tội làm nhục đồng đội và Tội hành hung đồng đội, đồng thời quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như phạm tội với chỉ huy, sỹ quan, đối với chỉ huy hoặc cấp trên, vì lý do công vụ của nạn nhân v.v…

- Tách một số tội danh, ví dụ: tách Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự thành hai tội: Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự và Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự; tách tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự thành hai tội Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự và Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự, đồng thời quy định rõ hơn các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội này.

- Bỏ hình phạt tử hình đối với tội chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch.

26.  Chương XXVI. Các  tội phá  hoại hòa bình,  chống loài  người và  tội phạm chiến tranh: gồm 5 điều (từ Điều 421 đến Điều 425).

- Các điều luật của chương này đã mở rộng hơn phạm vi của điều luật: thay từ "nước" thành "quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền".36

- Bổ sung quy định tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.

- Tách tội tuyển mộ lính đánh thuê, tội làm lính đánh thuê thành hai tội, bao gồm: Tội tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê và Tội làm lính đánh thuê.

27. Chương XXVII. Điều khoản thi hành (Điều 426) Quy định ngày hiệu lực thi hành của Bộ luật.
Các tin mới hơn
Một số điểm mới của Luật Giao dịch điện tử năm 2023(01/08/2023)
Quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ(02/06/2023)
Tài liệu tuyên truyền, phổ biến trên hệ thống truyền thanh cơ sở. (11/04/2023)
Văn phòng chính phủ ban hành Thông tư 01/2023/TT-VPCP 2023 về số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trên môi trường điện tử(07/04/2023)
Video bài giảng tập huấn nghiệp vụ về hòa giải cơ sở(28/09/2021)
Các tin cũ hơn
Tài liệu hòa giải chuyên đề tháng 4 năm 2018: Lĩnh vực hôn nhân và gia đình(04/06/2019)
Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(04/06/2019)
09 luật có hiệu lực từ 1/7/2013(04/06/2019)
Tài liệu tập huấn hòa giải ở cơ sở (Một số quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo)(04/06/2019)
Tài liệu tập huấn hòa giải ở cơ sở (Một số quy định về phòng chống bạo lực gia đình)(04/06/2019)
Video
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website
THƯ VIỆN ẢNH